Giáo dục và khởi nghiệp
08.2016
Bài viết về chuyên đề Giáo dục và khởi nghiệp của GS.TS Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam.
I. Giáo dục khởi nghiệp – một xu hướng
trong đào tạo đại học
Khởi nghiệp (khởi tạo doanh nghiệp) là
một chương trình đào tạo ở nhiều trường đại học trên thế giới, giúp cho giới
sinh viên trẻ hiểu biết và có năng lực
tạo lập doanh nghiệp mới sau khi họ rời ghế nhà trường. Cho đến nay, hầu hết
các quốc gia đều khẳng định rằng, khởi nghiệp có vai trò rất lớn với tư cách là
động lực mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế
- xã hội. Với thuật ngữ “khởi nghiệp”, ai cũng nghĩ đến việc lập ra
doanh nghiệp mới với những quy mô to, nhỏ khác nhau, nhưng vấn đề có ý nghĩa
rộng hơn nếu ta coi khởi nghiệp như giải pháp để giải quyết việc làm, khắc phục
tình trạng thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội.v.v…
Để khởi
nghiệp tạo ra hướng đi đúng đắn và phát triển mạnh mẽ, người ta đặc biệt chú ý
đến giáo dục khởi nghiệp (Entrepreneurship Education) nhằm đào tạo ra những con
người có phẩm chất và năng lực tạo dựng doanh nghiệp như tinh thần đổi mới, tư
duy sáng tạo, tinh thần mạo hiểm, năng lực giao tiếp, những tri thức về khoa
học và công nghệ, đạo đức kinh doanh.v.v…
Con người
muốn có năng lực khởi nghiệp phải được đào tạo sâu rộng về chuyên ngành, nhưng
lại phải có vốn tri thức phong phú về kinh tế học, triết học, tâm lý học, xã
hội học, đạo đức học, khoa học và công nghệ… Cùng với yêu cầu này, con người
muốn khởi nghiệp phải năng động sáng tạo, dám chấp nhận rủi ro, luôn luôn
học hỏi để vươn lên, vượt qua chính
mình.
Trên thế
giới, vấn đề khởi nghiệp đã được đặt ra từ lâu. Năm 1947, Đại học Harvard (Mỹ)
đã mở Chương trình “Giáo dục khởi nghiệp”, đến năm 1989 thì UNESCO chính thức
đưa ra khái niệm “Chương trình khởi nghiệp”. Tiếp sau Mỹ có một số quốc gia lần
lượt đưa Chương trình giáo dục khởi nghiệp vào kế hoạch đào tạo ở các trường
đại học. Riêng Việt Nam, gần đây chúng ta mới
nói đến khởi nghiệp, còn chương trình giáo dục khởi nghiệp thì trong các
văn bản của Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa thấy có ý tưởng gì. So với
các nước, Việt Nam đặt vấn đề khởi nghiệp quá chậm, nhưng đặt ra chậm mà tìm
được cách làm hay thì cũng là biểu hiện
đổi mới tư duy, bởi vì nói đến phát triển kinh tế thị trường mà không khởi
nghiệp, chắc chắn thị trường sẽ ảm đạm.
II. Sự phát triển giáo dục khởi nghiệp ở
một số quốc gia trên thế giới
1. Giáo dục khởi nghiệp ở Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là
quốc gia triển khai giáo dục khởi nghiệp sớm nhất thế giới. Năm 1947, Học viện
kinh doanh Harvard đã mở đầu chương trình “Quản lý doanh nghiệp đổi mới” cho
sinh viên, sau đó các trường đại học của
Mỹ đã mở ra trên 5000 chương trình khởi nghiệp. Năm 1968, Học viện kinh doanh
Harvard xây dựng chuyên ngành giáo dục khởi nghiệp và đến năm 2006, cả nước Mỹ
đã có trên 500 trường đại học xác lập chuyên ngành học chính hoặc bổ trợ về
khởi nghiệp, qua đó có thể trao văn bằng và học vị cả 3 cấp cử nhân, thạc sĩ và
tiến sĩ.
Từ
thực tế của Hoa Kỳ, ta có thể rút ra mấy
vấn đề có tính lý luận sau:
- Là bộ
phận cấu thành hữu cơ của giáo dục đại học, giáo dục khởi nghiệp vừa có thuộc
tính chung của giáo dục lại vừa tương quan mật thiết với hoạt động kinh tế.
Hoạt động khởi nghiệp phụ thuộc vào nhiều
nhân tố như tình hình kinh tế trong và ngoài nước, kết cấu kinh tế khu vực,
chính sách khởi nghiệp khu vực… nên chương trình giáo dục khởi nghiệp phải được
thiết kế khác nhau cho phù hợp với tình hình kinh tế luôn chuyển động.
- Do tinh
năng động của quá trình khởi nghiệp mà chương trình giáo dục khởi nghiệp luôn
phải điều chỉnh. Để chỉ đạo chương trình khởi nghiệp trong trường đại học, năm
2004, Hiệp hội Giáo dục khởi nghiệp Mỹ đã phải quy định “Tiêu chuẩn nội dung
quốc gia về giáo dục khởi nghiệp”. Căn cứ vào phương hướng nội dung khởi nghiệp
mà trường đại học lựa chọn chương trình của mình theo những chủ đề cần thiết.
Những chủ đề cơ bản là quá trình khởi nghiệp, hành vi khởi nghiệp, cơ sở thương
mại,kỹ năng giao tiếp, kỹ năng số, quản lý tài vụ, quản lý kinh doanh, quản lý
rủi ro, quản lý vận hành.v.v… mà chương trình giáo dục xác định các loại kỹ
năng phải có. Ba loại kỹ năng mà chương trình giáo dục khởi nghiệp phải xây
dựng là: Kỹ năng khởi nghiệp, kỹ năng dự bị và kỹ năng doanh nghiệp.
Nguyên
tắc chung về xây dựng chương trình giáo dục khởi nghiệp là:
- Xây
dựng nhóm chương trình giáo dục khởi nghiệp dựa
trên quá trình khởi nghiệp.
- Xây
dựng nhóm chương trình giáo dục khởi nghiệp xung quanh chuyên ngành khởi
nghiệp.
- Xây
dựng nhóm chương trình giáo dục khởi nghiệp dựa vào tri thức chuyên ngành.
- Xây
dựng nhóm chương trình giáo dục khởi
nghiệp nhằm vào các chuyên đề cụ thể. Các chuyên đề cụ thể mà sinh viên nhiều
trường cần được tiếp cận là khởi nghiệp công nghệ, khởi nghiệp doanh nghiệp gia
đình và khởi nghiệp xã hội.
Ở Mỹ có
Quỹ Kauffman chuyên ủng hộ giáo dục khởi nghiệp. Quỹ đã thành lập một nhóm đề
tài nghiên cứu về địa vị và vai trò của giáo dục khởi nghiệp trong các trường
đại học của Mỹ. Những đề tài này có thể khơi dậy và xúc tiến cải cách giáo dục,
phát triển giáo dục khởi nghiệp mà tương lai của nước Mỹ phải dựa vào.
2. Giáo dục khởi nghiệp ở Anh
Giáo dục
khởi nghiệp ở nước Anh bắt đầu từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Đến thập kỷ 80
thì giáo dục khởi nghiệp trong các trường đại học của Anh đã rất phát triển.
Kể từ năm
1982 đến nay, nhiều trường đại học của nước Anh đã tổ chức những sự kiện như:
Khởi động dự án “Sinh viên khởi nghiệp” (1982); Khởi dộng kế hoạch khởi nghiệp
trong trường đại học (1987); Công bố sách trắng “Cạnh tranh của chúng ta – xây
dựng nền kinh tế tri thức” (1998); Thành lập 12 trung tâm khởi nghiệp (2000);
Quỹ khởi nghiệp giáo dục đại học (2004); Thành lập Ủy ban khởi nghiệp sinh viên
toàn quốc (2005).v.v…
Tại Anh
quốc, có tới 45% trường đại học mở một
hoặc nhiều chương trình giáo dục khởi nghiệp, trong đó có Oxford, Cambride… Có
thể nói, giáo dục khởi nghiệp ở Anh phát triển nhanh do 3 yêu cầu sau:
- Các
doanh nghiệp tuyển sinh viên tốt nghiệp
đại học thường đòi hỏi ở họ “năng lực làm sự nghiệp”, biết giải quyết vấn đề nhanh và sáng tạo, có nhiều kỹ
năng, đặc biệt là kỹ năng di chuyển công việc;
- Tỷ
lệ thất nghiệp ở Anh khá cao, tới 7,8%,
trong đó khá đông là lao động trẻ tuổi. Tình hình này dẫn đến việc phải giúp
cho thanh niên năng lực khởi nghiệp;
- Nhiều
sinh viên đã không còn cam chịu đi làm thuê, mà hy vọng có doanh nghiệp riêng.
Trường đại học Anh đã nhận thấy phải giúp cho sinh viên tinh thần khởi nghiệp,
năng lực sáng tạo để ứng phó với tương
lai bất định. Chính phủ Anh đã có quy định và chính sách đối với giáo dục khởi
nghiệp để các trường đại học phục vụ tốt hơn đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội. Nhiều trường đại học của Anh đã coi trọng những tài năng khởi nghiệp, một
số trường còn chuyển hướng theo mô hình
đại học khởi nghiệp (The Entrepreneuriall University).
Đặc điểm
của sự phát triển giáo dục khởi nghiệp trong các trường đại học của Anh là:
● Làm rõ mục đích giáo dục khởi nghiệp: Lúc đầu, trường đại
học Anh hướng giáo dục khởi nghiệp vào việc
đào tạo sinh viên thành những ông chủ. Về sau, họ xác định lại mục tiêu
giáo dục khởi nghiệp có tính chiến lược hơn: Làm rõ quy luật chung, nguyên lý
và phương pháp khởi nghiệp, ý thức và phẩm chất ý chí trước thách thức của toàn
cầu hóa, tố chất khởi nghiệp và tinh thần khởi nghiệp…
● Giáo dục khởi nghiệp bao trùm toàn diện:
Ban đầu, các trường đại học chỉ triển khai các chương trình “Giáo dục khai sáng
khởi nghiệp”, “Giáo dục đại cương khởi
nghiệp”, sau đó tiến tới chương trình “Chuyên ngành khởi nghiệp” để nâng
cao tiềm năng và tố chất khởi nghiệp cho sinh viên. Đến nay, một số trường đại
học Anh đã mở chuyên ngành “khởi nghiệp học” (Entrepreneurship) hoặc “Đường
hướng khởi nghiệp” (Entrepreneurial Pathway). Họ cũng giúp chương trình giáo
dục khởi nghiệp với chương trình đào tạo học vị như một chuyên ngành học thứ hai. Như vậy, chương trình giáo dục khởi
nghiệp đã bao trùm lên các chuyên ngành đào tạo của trường đại học.
● Khuyến khích sinh viên tích cực tham gia
hoạt động thực tiễn khởi nghiệp: Trong các trường đại học của Anh, người ta
có phương án giáo dục khởi nghiệp trong giảng đường và ngoài giảng đường. Đại
học Oxford có dự án “Thách thức doanh nghiệp thế kỷ XXI” – đó là một cuộc đua
khởi nghiệp có tính chất quốc tế. Đại học Manchester có dự án “Venture Out”
(Khởi nghiệp bước đầu), “Venture Further” (Khởi nghiệp sâu), khuyến khích sinh viên
tham gia để sáng lập doanh nghiệp mới.
● Thành lập các Trung tâm khởi nghiệp để thực
thi giáo dục khởi nghiệp: Các trường đại học Anh thường mở ra các Trung tâm khởi nghiệp để
bồi dưỡng sinh viên năng lực phát hiện cơ hội thương mại, cơ hội khởi nghiệp,
liên kết nguồn lực, chịu đựng rủi ro…, từ đó thúc đẩy sinh viên tham gia thực
tiễn khởi nghiệp.
● Chuyên nghiệp hóa giảng viên giáo dục khởi
nghiệp: Theo hướng này, các trường rất chú ý các giảng viên đã từng trải về
khởi nghiệp. Mặt khác, ngoài giảng viên bộ môn kinh doanh, các trường còn tận
dụng giảng viên các lĩnh vực khoa học khác để giúp sinh viên kinh nghiệm và cơ
hội khởi nghiệp trong từng lĩnh vực cụ thể.
● Xây dựng mô hình hợp tác “Nhà trường – Doanh
nghiệp” trong giáo dục khởi nghiệp: Sự hợp tác “Nhà trường – Doanh nghiệp”
chia làm 2 loại: Đào tạo dài hạn và Đào tạo ngắn hạn.
Hạn chế
của loại đào tạo dài hạn là:
+ Hình
thức “2 +1+1” (2 năm đầu sinh viên học tại trường, năm thứ 3 sinh viên làm việc
ở doanh nghiệp, năm thứ 4 quay lại trường để hoàn tất khóa học).
+ Hình
thức “1+3+1” (năm thứ nhất sinh viên làm việc tại doanh nghiệp, năm thứ 2,3,4
sinh viên học ở trường, năm thứ 5 trở
lại doanh nghiệp).
Về đào
tạo ngắn hạn thì thông thường, sinh viên
chỉ làm việc ở doanh nghiệp 6 tháng.
● Giáo dục khởi nghiệp hình thành hệ thống
sinh thái lành mạnh: Các trường đại học Anh coi trọng chế độ liên kết nguồn
lực giáo dục khởi nghiệp giữa chính phủ, xã hội, giới chủ, trường đại học, bảo
đảm các lợi ích tương quan, hình thành hệ thống sinh thái giáo dục khởi nghiệp
tương tác lành mạnh.
Chính phủ
Anh cấp vốn lập các Quỹ hoặc Kế hoạch khởi nghiệp sau:
+ Quỹ đổi
mới giáo dục đại học (NEIF)
+ Quỹ
thách thức khởi nghiệp khoa học (SECF)
+
Học bổng khởi nghiệp mới (NES)
+ Quỹ
Trung tâm Dạy và Học xuất sắc (CETLF)
+ Sáng
kiến của Thủ tướng Anh (PMI)
3. Giáo dục khởi nghiệp ở Trung Quốc
Trong
nhiều năm qua, Trung Quốc luôn nêu lên vấn đề giáo dục tố chất cho thế hệ trẻ.
Trước trào lưu giáo dục khởi nghiệp của Anh, các trường đại học ở Trung Quốc đã
đặt vấn đề giáo dục ý thức khởi nghiệp và tố chất khởi nghiệp. Họ đặt mục tiêu
cho giáo dục khởi nghiệp là bồi dưỡng lòng hăng say sự nghiệp, năng lực tự học,
tinh thần nhà doanh nghiệp… cho sinh viên.
● Trung Quốc định hướng cải cách giáo dục đại
học theo cách tiếp cận giáo dục khởi nghiệp:
- Giáo
dục tư tưởng khởi nghiệp, tích hợp giáo dục khởi nghiệp vào trong các chương
trình giảng dạy.
- Quán
triệt giáo dục khởi nghiệp vào các khâu đào tạo nhân tài, nghiên cứu khoa học
và phục vụ xã hội.
- Thực
hiện giáo dục khởi nghiệp thông qua việc kết hợp giáo dục với thực tiễn.
- Tìm
kiếm các nguồn lực xã hội để tiến hành giáo dục khởi nghiệp, chú trọng kết hợp
"khoa học công nghệ - giáo dục - kinh tế".
● Xây dựng hệ thống mục tiêu giáo dục khởi
nghiệp chuẩn xác và tiệm tiến: Từng bước đi cụ thể như sau:
- Xây
dựng thái độ khởi nghiệp.
- Giúp
sinh viên cảm thụ hành vi khởi nghiệp.
- Giải
thích giá trị giáo dục khởi nghiệp.
- Xây
dựng động lực phát triển nghề nghiệp.
- Đề ra
các bước thành lập công ty khởi nghiệp.
- Bồi
dưỡng tố chất nhà doanh nghiệp.
- Nắm
vững tri thức thương mại khởi nghiệp.
- Xây
dựng kỹ năng quan hệ với những bên có lợi ích tương quan.
Nhiệm vụ
chủ yếu của giáo dục khởi nghiệp ở Trung Quốc bao gồm: vạch ra những quy luật
chung của khởi nghiệp, nắm chắc lý luận cơ bản về khởi nghiệp, nắm tri thức cơ
bản về khởi nghiệp, thành thạo quy trình cơ bản về khởi nghiệp, nâng cao năng
lực khởi nghiệp, hiểu rõ chính sách pháp quy khởi nghiệp, xúc tiến phát triển
nghề nghiệp của sinh viên.
● Xây dựng chương trình khởi nghiệp hệ thống
hóa
Chương
trình khởi nghiệp hệ thống hóa gồm 2 loại chương trình: Chương trình định hướng
lý luận khởi nghiệp và chương trình định hướng thực tiễn khởi nghiệp. 2 loại
chương trình này thống nhất chặt chẽ với nhau.
Về lý
luận khởi nghiệp, người ta đi sâu vào ý tưởng khởi nghiệp, thiết kế và phát
triển sản phẩm, cấp vốn khởi nghiệp, quản lý, pháp luật, tài vụ, tiếp thị.
Về thực
tiễn khởi nghiệp, trọng tâm là thiết kế chương trình khởi nghiệp, những chuyên
đề thực tiễn khởi nghiệp, thực tập khởi nghiệp, dự án khởi nghiệp.
Xét về
tính chất, cả 2 loại chương trình đều có chương trình cốt lõi (Core
Curriculum), chương trình tùy chọn (Electives Curriculum), chương trình dự án
(Project Curriculum).
● Xây dựng đội ngũ giảng viên giáo dục khởi
nghiệp
Cũng
giống như cách làm của trường đại học của Anh, ở Trung Quốc người ta thường
phát triển đội ngũ này theo phương pháp sau:
- Chọn
những giảng viên có kinh nghiệm thực tiễn về khởi nghiệp;
- Tiến
hành bồi dưỡng định kỳ cho giảng viên, tiến tới chuyên môn hóa giảng viên giáo
dục khởi nghiệp;
- Chọn
một số sinh viên ưu tú trong việc khởi nghiệp tham gia giảng dạy;
- Mời
những doanh nhân thành đạt làm giảng viên kiêm nhiệm.
4. Giáo dục khởi nghiệp ở Australia
Giáo dục
khởi nghiệp ở Australia bắt đầu từ thập
kỳ 90, thế kỷ XX. Đến nay, tại nhiều trường đại học, người ta mở ra những
chuyên ngành và chương trình giáo dục khởi nghiệp ở các bậc đại học và sau đại
học. Hầu như các bộ môn được giảng dạy ở trường đại học đều có chương trình
giáo dục khởi nghiệp.
Bang New
Soath Wales và bang Queensland có nhiều trường đại học hơn cả mở các chương
trình giáo dục khởi nghiệp. Về trình độ đào tạo khởi nghiệp, ta thấy:
- Đại học
Công nghệ Hoàng Gia Melbourne, đại học Ballarat, đại học Murdoch, đại học
Victoria, đại học Camberra… cung cấp học vị cử nhân kinh doanh hoặc quản lý
khởi nghiệp;
- Đại học
Nam Australia, đại học Newcastle, đại
học Queensland, đại học Adelaide, đại học công nghệ Swinburne.v.v… có chương
trình sau đại học về giáo dục khởi nghiệp. Ở đại học Nam Wales Mới có chuyên
ngành tiến sĩ triết học về sách lược và khởi nghiệp.
Về nội
dung giáo dục khởi nghiệp ở các trường đại học của Australia, ta thấy có 5 lĩnh
vực tri thức:
● Mạo
hiểm khởi nghiệp;
● Năng
lực đổi mới và sáng tạo khởi nghiệp;
● Mạo
hiểm doanh nghiệp mới;
● Kỹ năng
phân tích khởi nghiệp;
● Đào tạo
và lãnh đạo về quản lý khởi nghiệp.
Bộ Việc
làm, Giáo dục, Đào tạo và Công tác thanh niên Australia định nghĩa: "Giáo dục khởi nghiệp là giáo dục, bồi
dưỡng năng lực, kỹ xảo và các phẩm chất cá nhân như tính cách tân, tính sáng
tạo, tính đổi mới cho thế hệ trẻ. Nó không chỉ giúp người học nắm được các cơ
hội trong đời sống và công tác, mà còn giúp họ làm việc cho mình".
5. Giáo dục khởi nghiệp ở Israel
Israel là
một quốc gia được mệnh danh là "Đất nước khởi nghiệp". Trước câu hỏi
"Do đâu mà Israel trở thành một cường quốc đổi mới và khởi nghiệp?",
câu trả lời xác đáng là: "Chủ yếu là
do truyền thống văn hóa của người Do Thái và quan niệm giáo dục nhân tài của Israel".
Israel
bao gồm một dân tộc theo chế độ mẫu hệ. Họ coi trọng giáo dục gia đình, coi
trọng tri thức và đề cao trí tuệ. Có thể nói, dân Do Thái chịu khó đọc sách hơn
hẳn một số dân ở các nước phát triển: Số
sách bình quân mà một người dân đọc trong mỗi năm ở Trung Quốc là 4,5 cuốn; con
số tương tự ở Hàn Quốc là 11, ở Pháp là 20, ở Nhật là 40, còn ở Israel là 64.
Israel cóChương trình đào tạo tinh anh, gọi là
Chương trình Talpiot. Những người được
đào tạo mà vượt qua sự sát hạch cực kỳ chặt chẽ sẽ trở thành những chuyên gia
đỉnh cao hoặc người sáng lập doanh nghiệp thành công của Israel. Những chương
trình đào tạo tinh anh đã tạo ra các kênh vận chuyển nhân tài đổi mới và khởi
nghiệp có hiệu quả rất cao.
Với
Israel, chương trình giáo dục khởi nghiệp chính là chương trình đào tạo tinh
anh (nhân tài) lâu dài. Khởi nghiệp không tách rời vấn đề nhân tài, mà nhân tài luôn cần mặt bằng, cần người phát
hiện, cần thổ nhưỡng và môi trường để trưởng thành.
III. Mấy nhận xét về xu hướng phát triển
giáo dục khởi nghiệp
1. Về thực chất, giáo dục khởi nghiệp là một cuộc
cải cách giáo dục lớn, nó đòi
hỏi phải có một trình độ tư duy phản biện và sáng tạo cao, đoạn tuyệt với cải
cách giáo dục và đào tạo mang tính áp đặt, nhồi nhét, khuôn mẫu, mài mòn những
đặc điểm riêng của nhân cách người học, mà cách đào tạo này còn khá phổ biến ở
nước ta. Sự tụt hậu của giáo dục đại học ở Việt Nam là ở chỗ không bắt kịp với
xu hướng khởi nghiệp của giáo dục đại học trên thế giới.
2. Các
quốc gia phải có chế độ chiến lược phát triển giáo dục khởi nghiệp chuyên biệt
từ cấp độ quốc gia, coi giáo dục khởi nghiệp như một bộ phận hợp thành
của chiến lược chỉnh thể quốc gia, triển khai từ giai đoạn giáo dục tiểu học và
giáo dục trung học, coi giáo dục khởi nghiệp là công việc cơ bản bảo đảm động
lực phát triển kinh tế và năng lực cạnh tranh lâu dài. Nhiều nước đã xây dựng
phát triển giáo dục khởi nghiệp suốt đời và đã có những chế định ủng hộ giáo dục
khởi nghiệp về các phương diện chính sách, vốn đầu tư cùng các nguồn lực khác.
3. Tích
hợp giáo dục khởi nghiệp với các chiến lược phát triển khác là một cách làm vô
cùng cần thiếtnhư chiến lược học tập suốt đời, chiến lược tăng trưởng
kinh tế, chiến lược đổi mới khoa học và công nghệ… Trong chiến lược học tập
suốt đời mà Liên minh Châu Âu đề xuất có 8 năng lực them chốt (Key competences)
mà mỗi cá nhân trong xã hội tri thức phải có, trong đó, năng lực khởi nghiệp là không thể thiếu.
4. Giáo
dục khởi nghiệp phải được tiến hành từ cấp vi mô (trong từng trường đại
học) đến cấp vĩ mô (cấp quốc gia và
xuyên quốc gia). Giáo dục khởi nghiệp không chỉ hướng vào những sinh viên có
khuynh hướng khởi nghiệp trong các học viện và các trường đại học đào tạo về
kinh doanh và kỹ thuật, mà là một hình thái giáo dục bồi dưỡng tinh thần đổi
mới và năng lực đổi mói cho mọi sinh viên theo học các khoa, các bộ môn khác
nhau. Việc dung hợp chương trình giáo dục khởi nghiệp với
giáo dục các bộ môn sẽ thu hút đông đảo các doanh nhân, các nhà quản lý tham
gia giảng dạy các chương trình khởi nghiệp. Trường đại học phải đóng vai trò
người tạo lập môi trường xúc tiến đổi mới và khởi nghiệp. Các công việc khoa
học công nghệ, các tổ chức hợp tác nhà trường – doanh nghiệp có tác dụng kích
thích tinh thần khởi nghiệp của sinh viên thông qua việc bồi dưỡng cho họ và
tri thức khởi nghiệp và kỹ năng khởi nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Vương Chí Cường: Xu thế phát triển
giáo dục khởi nghiệp của Liên minh Châu Âu – Tài liệu phục vụ nghiên cứu TN
2016 – 51,52. Hà Nội, 2014
2. Trương Vệ Dân, Mẫu Tiểu Dũng: Đường
lối xây dựng chương trình giáo dục khởi nghiệp trong trường đại học Mỹ - Tài
liệu phục vụ nghiên cứu TN.2016 – 46&47, Hà Nội, 2016.
3. Phạm Tất Dong: Xây dựng xã hội học tập
– một xu hướng đổi mới phát triển của giáo dục thế kỷ XXI – Tạp chí Nghiên cứu
khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1/2013.
4.Fukazawa Yukichi: Khuyến học, Nhà
Xuất bản Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2004.
5. Triệu Trung Kiến, Trác Trạch Lâm:
Đổi mới khởi nghiệp: Các trường đại học Mỹ làm thế nào? Tài liệu phục vụ nghiên
cứu, TN 2016-46847, Hà Nội, 2016. |
|